
Chân-Thiện-Mỹ là gì?
Chân-Thiện-Mỹ là gì?
CHÂN thường được hiểu là đúng, đúng, đúng, đúng. Nói đến sự thật là chống lại phạm trù dối trá – giả dối. Tuy nhiên, chân lý cũng có thể hiểu theo nghĩa hẹp là chân lý – tức là lẽ phải, là “sự phản ánh chính xác những sự vật khách quan và các quy luật của chúng vào ý thức con người” (Từ điển Tiếng Việt, tr. 185).
Thiện theo nghĩa Hán Việt là tốt, tốt, lương thiện, để chống lại cái ác. Thuật ngữ thiện được sử dụng trong cuộc sống như: cuộc chiến giữa thiện và ác trong thần tiên, người tốt, có tấm lòng hướng thiện, lòng nhân ái, tấm lòng hướng thiện, “thiện căn ở trong lòng”,… Người thiện là người tốt, sống có ích. Cũng có nhiều bàn luận về tính hướng thiện của giáo lý nhà Phật (khuyên người tu hành, tích đức, tích thiện, có lòng từ bi). Trong suy nghĩ của các nhà triết học cổ đại phương Đông (Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, v.v.), tính thiện cùng với nhân, đức, lễ nghĩa là những phẩm chất thiết yếu của con người. “Bản chất con người là bản chất tốt”, hay “bản chất con người là bản chất xấu”, là sự phân bố của bản chất tốt và xấu hay không khi con người được sinh ra. Về vấn đề này, chúng ta thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện một quan niệm khoa học: “Dĩ hòa vi quý không phải tự nhiên mà có/ Phần nhiều là do học” (Nhật ký trong tù).
Mỹ một phạm trù thẩm mỹ rất phức tạp, nhưng cái được hiểu phổ biến nhất và dễ hiểu nhất là cái đẹp. Quan niệm về cái đẹp rất phong phú ở mỗi thời, mỗi người, trong bài viết này chúng tôi không có điều kiện bàn mà chỉ muốn giới hạn phạm vi cách hiểu cái đẹp với tư cách là cái đẹp: cái đẹp ở đời và cái đẹp của con người .
Hình minh họa.
Trong môn văn, Chân-Thiện-Mỹ là những giá trị cốt lõi của văn học; văn học để Chân-Thiện-Mỹ luôn là văn học cho mọi người và văn học cho muôn đời. Cũng như vậy, trong cuộc sống, Chân – Thiện – Mỹ Đây là ba giá trị phổ quát mà con người khao khát, thậm chí ước muốn, hướng tới chân lý và sự hoàn hảo.
Mối quan hệ giữa Chân-Thiện-Mỹ.
Ở mức độ thông thường ta thấy cái đẹp bao giờ cũng gắn liền với hiện thực. Nếu nói thơ giả, hình ảnh giả, tức là bài thơ, hình ảnh đó không đẹp, không hay. Trong một tác phẩm nghệ thuật, người ta có thể tự do tưởng tượng, thậm chí đến mức siêu thực, nhưng nó luôn chân thực, ý nghĩa, không thể giả tạo, nhưng cái giả cũng tương tự như cái vô giá trị. .
Picaso đã nói: “Tôi có thể tự hào nói điều này: Tôi chưa bao giờ coi hội họa là một môn nghệ thuật chỉ để mua vui, cho vui. Tôi muốn sử dụng cọ và màu, bởi vì đây là vũ khí của tôi, để hiểu sâu hơn về thế giới và con người, để sự hiểu biết đó mang lại cho chúng ta nhiều tự do hơn. Vâng, tôi biết rằng tôi đã chiến đấu trong một thời gian dài với những bức tranh của mình với tư cách là một nhà cách mạng chân chính.. (Theo Phùng Văn Tửu- Mỹ học, của Diderot, NXB Khoa học và Xã hội). Trong bài phát biểu nhận giải Nobel năm 1987, nhà thơ Joseph Brodsky đã nói “Thơ là hiểu, là nghĩ, là cảm thế giới” và đi “hơn” về những bí mật của thế giới, “nơi không ai đã đi”.
Tuy nhiên, văn học là sáng tạo, là hư cấu, không phải là sự sao chép hiện thực. Tolstoy không nhận ra sự thống nhất của Chân-Thiện-Mỹ, và cũng không có sự thống nhất đó trong các tác phẩm của ông. Trong tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình, Tolstoy, để chứng minh sự đoàn kết của nhân dân Nga trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đã xóa bỏ sự khác biệt giữa các giai cấp, giảm bớt nét bút, mài mòn. trong cộng đồng. Nói cách khác, vì cái đẹp và cái đẹp, anh ta đã hy sinh một phần sự thật. Sự thật nằm trong cuộc đối thoại của cái tốt, sự thật. Hoặc họ phủ nhận nhau, chỉ trích nhau.
Nếu đem ánh sáng của cái đẹp và cái thiện để miêu tả cái xấu, cái ác thì chúng sẽ đối thoại với nhau, không đồng thuận với nhau. Nhà xã hội học người Đức, Max Weiber, nói thẳng: “Cái gì đẹp bởi vì nó không thật, nó không tốt. Cái gì đúng bởi vì nó không đẹp và không tốt. Nhưng vì nó không đẹp, nó không tốt, đó là chân. Chân-Thiện-Mỹ về cơ bản riêng rẽ, không thống nhất”. Weiber cũng lập luận rằng ba giá trị Chân-Thiện-Mỹ loại trừ lẫn nhau, không nhất thiết phải nhất quán.
Thực vậy, Chân-Thiện-Mỹ có thể không đồng ý với nhau. Theo Lão Tử trong Đạo Đức Kinh, cái thực và cái đẹp không loại trừ lẫn nhau: “Lời thật không đẹp, mà lời đẹp lại không thật. Người tốt không nói tốt, người tốt không nói tốt; Người hiểu đạo không biết nhiều, người biết đạo không biết đạo.” (Niềm tin không đáng tin, lời nói hoa mỹ vô cùng; người tốt không hợp lý, chủ trương xấu; trí thức tồi, bác sĩ kém hiểu biết). Sự thật khó nghe; Lời nói dối thường ngọt ngào, Nút tai là một lời nói dối. Và từ nói dối không có giá trị đạo đức. Chân-Thiện-Mỹ – Biên – Trị – Trí khác nhau, không thống nhất với nhau. Phạm vi của Lão Tử hẹp hơn. Ông chỉ nói về mối quan hệ giữa lời thật và lời đẹp, một mối quan hệ độc quyền. Nhưng qua đó ta cũng thấy được mối quan hệ của chúng với văn chương, với nghệ thuật ngôn từ.
Văn thực không đẹp, văn đẹp không thực. Trong thời hiện đại, nhà thơ tượng trưng người Pháp Baudelaire có lẽ là một trong những người đầu tiên ủng hộ chủ nghĩa thẩm mỹ, người phản đối sự thống nhất như vậy. Anh nói: “Mục đích của thơ không phải là nâng con người lên trên lợi ích trần tục, nếu nhà thơ theo đuổi mục đích đạo đức thì sẽ làm suy yếu sức mạnh của thơ. Thơ không thể được đánh đồng với khoa học và đạo đức, nếu không, thơ sẽ mục nát và chết. một đối tượng, nó chỉ lấy chính nó làm cứu cánh. Ở một nơi khác, ông đã viết: “Thơ chẳng đạt được mục đích gì ngoài mục đích này, thơ làm để vui mới là hay và cao thượng, xứng danh là thơ”. Theo ông sự thật, lòng tốt và vẻ đẹp ở những vị trí khác nhau, với những chức năng khác nhau, khi kết hợp với nhau, cái này có thể tiêu diệt cái kia. Thơ chỉ dùng thơ làm mục đích. Quan điểm này có phần phù hợp với Lão Tử.
Lâu nay chúng ta phê phán quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật. Nhưng bây giờ không thể không thấy một sự hợp lý nhất định trong đó. Văn học là tác phẩm được viết ra dựa trên trí tưởng tượng mong muốn của con người, để chúng ta dễ dàng nhận thấy Chân-Thiện-Mỹ cùng nhau Trong nghệ thuật, cái thực (real) là tiêu chuẩn tuyệt đối, cái không phụ thuộc vào bất cứ cái gì có trước nó. Cái hay (cái hay) là cái cần thiết, so với cái đã có, gắn với lí tưởng của nhà văn. Nếu sự cần thiết chiếm ưu thế, thì sự thật sẽ chiếm ưu thế. Tính thẩm mỹ là thứ tạo nên hình dạng cho thế giới nghệ thuật. Nhưng mỹ học ngày nay chưa hẳn là tổng thể mà đã rời rạc, hỗn tạp, lai căng không còn như Bakhtin quan niệm đầu thế kỷ VIII.
Theo Bakhtin mối quan hệ như sau: “Thực tế chỉ có thể đối lập với nghệ thuật như một cái gì đó tốt (tốt) hoặc một cái gì đó đúng (sự thật) về cái đẹp.”. Ở đây Bakhtin nói đến sự thật hay điều tốt đẹp trong mối quan hệ với sự lựa chọn. Bạn không nói vẻ đẹp là điều, bởi vì nó phụ thuộc vào thực tế. Cái thẩm mỹ đưa cái thực hay cái tốt đến gần hơn với sự cảm nhận và suy ngẫm của người đọc. Vì vậy, nó được thống nhất Chân-Thiện-Mỹ Không phải là kết hợp bao nhiêu cái hay, cái chân, cái đẹp trong cuộc sống vào nghệ thuật, mà chỉ đưa cái chân (có trong tính cách), hay cái tốt (phải có) đến với yếu tố khách quan trong cơ thể thẩm mỹ. Theo nghĩa đó, theo Bakhtin, “Cuộc sống ở bên ngoài và bên trong nghệ thuật; nghệ thuật phong phú, không khô khan, không chuyên biệt; nghệ sĩ chỉ là một chuyên gia với tư cách là một nghệ nhân, tức là chỉ liên quan đến chất liệu của anh ta”.
Vì thế, Chân – Thiện – Mỹ kết hợp theo cách mà cái đẹp (thẩm mỹ) trở thành một hình thức biểu hiện cho cái đúng hay cái tốt, ở đó cái đúng, cái tốt và cái đẹp nằm trong một mối quan hệ hoàn toàn thông thường. Vì vậy, tính chân thực của văn học là tính chân thực của những khả thể của cuộc sống được nhà văn lựa chọn, khái quát cho thế giới nghệ thuật. Độ tin cậy ở đây là phù hợp với những khả năng của cuộc sống. Nếu người đọc chấp nhận thế giới là có thật, thì nó có chủ nghĩa hiện thực. Văn hóa nghệ thuật Việt Nam đang trên đà đa nguyên hóa. Từ chỗ không nhận ra cái vô thức và cái phi lý, chúng ta cắt nghĩa và thưởng thức những tác phẩm của văn học phi lý, như văn học hiện sinh, văn học phi lý. Từ chỗ không chấp nhận yếu tố giới tính trong văn học, nó dần thừa nhận sự xâm nhập của nó vào văn học nghệ thuật. Ranh giới của tình dục trong nghệ thuật và tính khêu gợi nằm ở chỗ, một bên là giá trị tinh thần, một bên là giá trị vật chất, vật thể.
Trong văn học cách mạng trước đây, nụ hôn bị coi là đồi trụy thì hiện tượng sex trong văn học ngày nay có thể coi là một sự kiện làm thay đổi nhận thức về giá trị thẩm mỹ, tính trung thực và đạo đức. Trong thực tiễn phê bình, nếu chạy theo tiêu chí đạo đức, tức là căn cứ vào tác động giáo dục mà đánh giá, thì có thể hy sinh tiêu chí thẩm mỹ. Như Ngô Đức Kế đánh giá về Truyện Kiều, khi xem xét những tiêu chuẩn đạo đức của nó, ông chỉ thấy những tác động tiêu cực của nó: “Ái, sắc, sầu, oán, đạo, dâm, nâng, hạ, tám chữ ấy không tránh được”. Ông cũng thấy Truyện Kiều là một áng văn hay nhưng không thấy thống nhất. Trong văn viết, nếu chạy theo tác dụng tuyên truyền, giáo dục thì tính chân thực thường bị vi phạm.