
Yêu cầu đối với nghệ sĩ sáng tạo văn học.
1. Nghệ sĩ phải luôn sáng tạo, tìm tòi những đề tài mới, hình thức mới.
Nam Cao đã từng làm chứng: “Văn chương không cần những người thợ lành nghề theo một khuôn mẫu nào đó. Văn chương chỉ cho phép những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa khơi, biết sáng tạo những cái không có.. Shekhov cũng lập luận rằng: “Nếu một nhà văn không có con đường riêng của mình, anh ta không thể là một nhà văn.”
“Nếu tự gọi mình là người am hiểu nghệ thuật ngôn từ thì tôi không nghi ngờ gì nữa, một nhà văn độc đáo có một không hai mà mỗi dòng, mỗi chữ thoát ra khỏi đầu ngòi bút đều có cảm giác như có dấu ấn của riêng mình”. Tiếng Anh). Người nghệ sĩ trên hành trình sáng tạo phải là người trinh sát, có ăng-ten nhanh nhạy để thu mọi tín hiệu, mọi làn sóng; phải có khả năng tổng hợp, đánh giá, phân tích để đưa ra giọng đọc chính xác, sâu sắc. Mỗi câu thơ, câu đối đều là kết quả của quá trình sáng tạo độc đáo của người nghệ sĩ sau khi chọn lọc, nhào nặn một cách kỹ càng những chất liệu hiện thực. Vì vậy, khi một nhà văn mới xuất hiện, câu hỏi của chúng tôi về anh ta là: Anh ta là gì? Anh ấy có thể cho chúng ta một cái gì đó mới để nhìn thấy trong cuộc sống?
Vì vậy, sáng tạo chính là yếu tố then chốt quyết định sự sống còn của nhà văn trong sự phát triển chung của văn học.
2. Người nghệ sĩ phải biết rung cảm trước cuộc đời.
Tâm hồn nhạy cảm chính là biểu hiện của trái tim giàu cảm xúc của nhà văn. Đó là lúc nhà văn thâm nhập vào chủ thể bằng một trái tim cháy bỏng, biến đổi cái khách quan thành cái chủ quan cao độ. “Tôi tin rằng tôi đã sinh ra tính khách quan đó.” Để từ đó, bằng văn bản, họ vận dụng vốn sống sâu sắc nhất của mình để cảm nhận cuộc sống.
Cảm xúc là yếu tố quyết định bản sắc, giá trị và tầm vóc của một tác phẩm nghệ thuật. Khi Lê Quý Đôn nói: “Thơ bắt đầu trong trái tim” nghĩa là cảm xúc quyết định bản sắc của bài thơ. Ngô Thì Nhậm nhấn mạnh: “Hãy đổi hồn thơ lấy cây bút thần”. Nói cách khác, cảm xúc quyết định chất lượng thơ. Và Nguyễn Đình Thi kết luận: “Hình ảnh của bài thơ phải là hình ảnh thực, nảy sinh trong tâm hồn ta khi ta bàng quan trước một hoàn cảnh, trạng thái”.
Cái gốc của văn học nói chung và tác phẩm nói riêng là cảm xúc, nghĩa là người nghệ sĩ phải biết hiện thực cuộc sống vận hành như thế nào thì mới sáng tạo được nghệ thuật.
3. Mỗi nhà văn phải có phong cách riêng.
Vì bản chất của văn học là hoạt động sáng tạo mang tính chất cá nhân. Nếu nhân cách nhà văn yếu kém, không tạo được tiếng nói riêng thì tiếng nói của chính mình là tự sát trong văn chương.
Phong cách chính là nhà văn phải mang đến cho văn học một tiếng nói mới, đó là sự độc đáo nhưng đa dạng, liên tục và đổi mới. Đặc biệt, nó phải có tính thẩm mỹ, nghĩa là mang lại cho người đọc niềm vui thẩm mỹ phong phú. Phong cách không chỉ là dấu hiệu của sự trưởng thành của nhà văn, mà khi nó phát triển, nó còn là bằng chứng của một nền văn học trưởng thành.
Nhà văn Tuocgenhev nhận định: “Cái quan trọng của tài văn chương là giọng nói, cái giọng độc đáo của chính mình, không thể tìm thấy trong cổ họng của ai khác.“. Nguyễn Tuân cũng nhấn mạnh: “Nghệ thuật là lãnh địa của cái nguyên bản nên cần có phong cách, tức là cái gì đó rất mới, rất riêng để thể hiện trong tác phẩm của mình. Đồng quan điểm, nhà văn Leonov viết: “Nếu không có tiếng nói riêng, không mang cái mới vào văn học mà chỉ đi theo lối mòn thì tác phẩm nghệ thuật sẽ chết”
Phong cách nghệ thuật bắt nguồn từ cá tính sáng tạo của nhà văn. Cá tính sáng tạo là tổng hòa của các yếu tố như thế giới quan, tâm lý, ứng xử, đời sống hàng ngày… Phong cách nhà văn còn mang dấu ấn của đất nước và thời đại.
Phong cách của nhà văn có thể được xác định trong tác phẩm. Có nhiều yếu tố trong tác phẩm là có chỗ cho phong cách của nhà văn thể hiện.
+ Bằng cách nhìn, cách cảm giàu tính phát hiện của nghệ thuật, đưa vào cuộc sống.
+ Qua giọng văn riêng, gắn với cảm hứng sáng tạo.
+ Nét độc đáo trong việc lựa chọn, xử lý đối tượng, xác định đối tượng, xác định đối tượng miêu tả…
+ Tính thống nhất và mạnh mẽ trong việc sử dụng các thủ pháp và biện pháp nghệ thuật.
Các biểu hiện của phong cách văn học không đứng một mình mà tổng hợp lẫn nhau hoặc thông qua nhau. Tất cả mọi thứ tạo thành một nguyên tắc của toàn bộ cấu trúc của loại hình nghệ thuật, mang lại cho hiện tượng văn học một tổng thể hoàn chỉnh.
Thời gian tuy thầm lặng nhưng vô tình, nhưng thời gian cũng là gáo nước rửa ảnh tô điểm cho những tác phẩm tốt hiếm có. Có một nữ nhà văn đã từng nói đại khái: “Sẽ không bao giờ gặp lại nhau như chiều nay“. Nguyễn Tuân cũng nói: “Tôi nghĩ rằng trong viết lách, bạn nên cố gắng viết tốt và viết theo ý mình. Văn học nên độc đáo hơn bất kỳ lĩnh vực nào khác.” “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông“. Mỗi khoảnh khắc sẽ không bao giờ trở lại. Chúng ta sẽ không bao giờ thấy một Nam Cao, một Nguyễn Tuân, Xuân Diệu hay Thạch Lam… thứ hai trên cõi đời này. Bởi văn chương không bao giờ là sự lặp lại và mỗi nhà văn đều có thể tạng, phong cách riêng, phong cách riêng. . “Mỗi người dân đều có một dấu vân tay. Mỗi nghệ sĩ chân chính đều có một khuôn mẫu không thể sai lầm. (Lê Đạt)
Vấn đề về phong cách cũng được thể hiện qua “Nhìn” của mỗi người nghệ sĩ trước cuộc đời. “Đừng cho tôi chủ đề, cho tôi đôi mắt.” Đôi mắt nhìn đời khác đi sẽ mang đến những trang viết khác và đậm cá tính sáng tạo. Nó không chỉ là cái để soi mà là một vấn đề rộng lớn hơn với phong cách nghệ thuật của nhà văn.
“Phong cách nghệ thuật của nhà văn độc đáo, giàu tính tìm tòi, phát hiện về con người và cuộc sống thể hiện qua các hình thức nghệ thuật độc đáo và các phương pháp, thủ pháp nghệ thuật chứa đầy dấu ấn sáng tạo của cá nhân người nghệ sĩ thể hiện trong tác phẩm.”
Phong cách là một vấn đề của sự xuất hiện. Mỗi nhà văn nên có một cái nhìn mới, độc đáo, một cảm giác tìm tòi và khám phá phong phú về cuộc sống. Đó có phải là một cuộc sống khác nhau? Từ xưa đến nay bốn mùa không đổi vẫn là những vấn đề bức xúc, thường xuyên về đời sống, con người. Tuy nhiên, người viết nào cũng có thể tìm thấy những phần, những góc quen cũ mà không ai thấy, hoặc thấy nhưng không để ý và vờ như không quan tâm.
Cuộc sống qua con mắt của nhà văn luôn có nhiều điều bí ẩn chưa được khám phá. Đó là ý thức nghệ thuật của một nhà văn chân chính. Họ không cho phép mình sống ngược, sống cẩu thả, viết hời hợt và nhìn cuộc đời một cách cẩu thả, bất cẩn. Những nhà văn chân chính mang đến cho người đọc rằng mỗi lần đọc tác phẩm của họ, họ lại mở rộng tầm mắt với những điều khác biệt và mới mẻ.
Tuy nhiên, không phải ai cũng có con mắt nhìn đời tươi mới và không phải con mắt nhìn đời nào cũng tạo nên một phong cách nghệ thuật. Cái gì cũng vậy, cái gì cũng phải có chừng mực. “chín muồimột mức độ “người lớn” Chắc chắn Giai đoạn 1930-1945, chúng ta chứng kiến sự ra đời của hàng loạt tên tuổi với những tác phẩm có giá trị. Với thơ, nói như Hoài Thanh”một thời thơ ca”, một thời mà mỗi câu ca vang vọng đều có những âm hưởng đau thương không thể xóa nhòa. “Chưa bao giờ ta thấy một hồn thơ khoáng đạt như Thế Lữ, mộng mơ như Lưu Trọng Lư, cao thượng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, não nùng như Huy Cận, chân quê như Nguyễn Bính, dung dị như Chế Lan Viễn và nồng nàn, sáng và ưu tư như Xuân Diệu” (Hoài niệm).
Mỗi nhà thơ góp một phần “rất riêng tư nhưng rất nhỏ” đến nền văn học dân tộc, tạo nên những vần thơ hạ cảm xúc và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người. Điều đặc biệt là mỗi người có một cách nhìn mới về con người và cuộc sống. Không có nhiều quy tắc hay ước lệ, Thơ Mới đạt đến đỉnh cao trong việc phá vỡ mọi nguyên tắc cũ của thơ cũ. Họ nhìn và cảm nhận mọi thứ khác với người già, họ có đôi mắt tò mò để quan sát xung quanh.
Lưu Trọng Lư từng nhận xét: “Ông bà thích đỏ tươi, tôi thích xanh nhạt. Người già xao xuyến tiếng đêm khuya, tiếng gà gáy trưa xao xuyến. Trông thấy cô bé xinh xắn, ngây thơ, người già cho là một tội lỗi, ta coi nó mát như đứng trước cánh đồng xanh, tình yêu của họ chỉ là hôn nhân, còn với tôi thì có trăm dạng: tình say đắm, tình thoáng qua, tình thân thiết, tình xa cách, tình nhất thời, tình vĩnh cửu “.
Đó không phải là một sự thay đổi trong quan điểm có thể thay đổi cách chúng ta viết, sử dụng ngôn ngữ và thể hiện cảm xúc của mình sao? Nhưng tất cả những điều đó đều góp phần tạo nên phong cách, tạo nên sự khác biệt trong sáng tạo nghệ thuật.
Trong dòng văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao đều là những cây bút xuất sắc khi tập trung ngòi bút vào cuộc sống của những người dân nghèo. Nhưng nếu như Nguyễn Công Hoan nhìn cuộc đời là những mảnh khổ đau, Thạch Lam nhìn cuộc đời như một mảnh vải thủng lỗ chỗ, nhơ nhuốc mà vẫn chẳng là gì thì với Nam Cao, cuộc đời là một tấm áo cũ rách.
Những cách nhìn này dưới con mắt của mỗi nhà văn đã tạo nên sự khác biệt trong phong cách. Một người trào phúng, một người lãng mạn, một người theo chủ nghĩa hiện thực với giọng kể chuyện hoàn hảo; Cuộc đời của ba nhà văn hợp thành một đời văn lớn: dài, rộng và phong phú vô tận.
Cuộc đời và phong cách của một nhà văn đặt ra vô số vấn đề cho nhà văn. Rằng anh phải làm sao để khác đi, để kiếp sau nhớ đến anh. Văn học là sự lặp lại tồi tệ nhất. Bạn không được phép thay đổi người khác hoặc thay đổi chính mình. Mỗi lần viết, ông lại mở ra cho người đọc một cái nhìn mới, đầy khám phá về cuộc sống và con người. Đó là thiên chức, là trách nhiệm sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.
Marcel Proust tin rằng: Thế giới không được tạo ra một lần, nhưng mỗi lần có một nghệ sĩ độc đáo, thế giới lại được tạo ra một lần nữa. Tô Hoài cho rằng: Mỗi trang văn phản ánh thời điểm mà nó ra đời. Bằng kinh nghiệm văn học của bản thân, anh/chị hãy bình luận về những nhận định trên.