
Khái niệm về công việc sáng tạo của nghệ sĩ
1. Quan niệm mỹ học duy tâm
Qua các chương trên chúng ta đã biết được nhiều đặc điểm, tính chất khác nhau của tác phẩm văn học, đó cũng là quá trình chúng ta tiếp tục xác định vai trò, vị trí, ý nghĩa to lớn của văn học trong đời sống kinh tế – xã hội. Đến đây, một câu hỏi đặt ra: vậy thì quá trình sáng tạo ra một tác phẩm văn học – một nền văn minh tinh thần kỳ diệu của con người đã diễn ra như thế nào? Người cha của đứa trẻ kỳ diệu đó phải có những đức tính đặc biệt nào?
Cũng giống như nhiều câu hỏi quan trọng khác trong nghiên cứu văn học, câu hỏi về phẩm chất của tài năng sáng tạo của người nghệ sĩ và quá trình sáng tạo của anh ta là một câu hỏi lâu đời trong lịch sử thẩm mỹ nhân loại. Sáng tạo là gì? Quá trình sáng tạo có thể được giải thích? Lực lượng nào tham gia và chi phối quá trình sáng tạo?
Mỹ học duy tâm từ thời Platon cho rằng không thể hiểu được quá trình nghệ thuật của người nghệ sĩ. Nghệ thuật là một phép màu đặc biệt, nghệ sĩ là một công cụ có sức mạnh thần bí, anh ta có một bản chất thần thánh. Người nghệ sĩ sáng tác trong trạng thái tâm thức không bị cản trở đó. Tác phẩm hiện thực của nhà văn là sự thể hiện quan niệm bất biến, tồn tại vĩnh viễn trước khi thế giới ra đời. Do đó, không thể hiểu thông qua lý trí.
Tán thành với ý kiến của Plato, các nhà mỹ học duy tâm trực giác tư sản như Bergson, Croce, Freud đã đưa cách hiểu của Plato vào lĩnh vực sinh học. Họ coi trực giác phi lý là sức mạnh
Lực lượng sáng tạo duy nhất là nguồn gốc và nội dung của sáng tạo nghệ thuật. Bergson lập luận rằng các nhà văn sáng tạo bằng trực giác. Freud đã nêu: quan niệm về vô thức cho phép lần đầu tiên (hoạt động) có một quan niệm về tinh thần của hoạt động sáng tạo của nhà thơ. Mrtain coi trực giác là ngọn đèn vô cùng giá trị và là nguyên tắc thiết yếu của nghệ thuật. nhấc lên một cách vô thức. Những người theo trực giác cho rằng nghệ thuật trong bản chất của nó là không cố ý, sự cố ý, có ý thức của nhà văn không những vô ích mà thậm chí còn có hại. Bất kỳ ý định sáng tạo nghệ thuật nào cũng giết chết nghệ thuật.
Những người theo chủ nghĩa xét lại cũng phủ nhận lý do sáng tạo nghệ thuật. Theo Phi se, nghệ sĩ nên tránh xa các quan điểm chính trị công khai. Ông khẳng định rằng những ấn tượng trực tiếp về hiện thực là thứ duy nhất có khả năng hướng dẫn nghệ sĩ tạo ra tác phẩm thực sự.
2. Quan niệm mỹ học duy vật
Khác với mỹ học duy tâm, mỹ học suy đồi tư sản và mỹ học xét lại, mỹ học duy vật có quan điểm khoa học về sáng tạo nghệ thuật, trong đó cơ bản nhất là khẳng định ý thức con người. là lực lượng chủ yếu của sáng tạo nghệ thuật. Aristotle tin rằng nghệ thuật là sự bắt chước của thực tế, một công cụ để hiểu thực tế. Người ta có thể hiểu và giải thích quá trình sáng tạo. Biélinsky phản đối quan niệm hoạt động sáng tạo là một hiện tượng cảm tính. tất cả Nhà thơ, dù là nhà thơ lớn, cũng phải đồng thời là nhà tư tưởng, nếu không thì tài năng cũng chẳng ích gì. Tchernuchevski khẳng định quyết tâm: … ngay cả tài năng vô thức mạnh nhất, nhà thơ cũng không không thể làm được điều gì vĩ đại, nếu anh ta không được trời phú cho một đầu óc nhạy bén, một trí tuệ tốt, một gu thẩm mỹ tinh tế.
Mỹ học Mác – Lênin kiên quyết phản đối những sai lầm của mỹ học duy tâm và khẳng định sáng tạo nghệ thuật không phải là một hành vi tự nhiên, thần bí, đồng thời không chấp nhận quan điểm dung tục cho rằng tài năng nghệ thuật không phải là đặc biệt. Mỹ học Mác – Lênin xem xét đúng đắn vai trò của tài năng và thế giới quan trong quá trình sáng tạo.