
Các lĩnh vực chính của văn học trung đại.
A. Về nội dung.
I. Cảm hứng yêu nước.
Đây là một cái nhìn khái quát toàn bộ quá trình tồn tại và phát triển của văn học trung đại.
– Chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại gắn liền với tâm”đội quân yêu nướcnhưng không tách rời truyền thống yêu nước của đất nước Việt Nam.
– Lòng yêu nước được thể hiện phong phú, đa dạng, có khi hào hùng, có khi bi tráng, có khi khát vọng.
– Biểu tình yêu nước:
- Ý thức tự do, tự tại, tự tin, tự hào dân tộc.
- Lòng căm thù giặc, tinh thần quyết chiến, quyết thắng.
- Tự hào về những thành tựu của thời đại và truyền thống của lịch sử.
- Tri ân và ca ngợi những người đã hy sinh vì đất nước.
- Yêu thiên nhiên đất nước.
– Nội dung yêu nước xuất hiện với những biểu hiện mới như nhận thức về vai trò của trí thức đối với đất nước (Chiêu Cầu hiền nhân – Ngô Thì Nhậm), tư tưởng canh tân đất nước (Xin dựng luật sư – Nguyễn Trường Tộ), tìm một hướng sống mới trong hoàn cảnh xã hội bế tắc (Bài ca ngắn trên cát – Cao Bá Quát)…
– Những biểu hiện của nội dung yêu nước qua tác phẩm, đoạn trích:
+ Chạy trốn giặc của Nguyễn Đình Chiểu: Lòng căm thù giặc, nỗi xót xa nhìn đất nước bị giặc tàn phá.
+ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu): Nhớ ơn những người đã hy sinh vì Tổ quốc.
+ Bài ca phong cảnh Hương Sơn (Chu Mạnh Trinh): Ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên đất nước.
+ Bài thơ Vịnh (Trần Tế Xương): Căm thù giặc.
II. Nguồn cảm hứng của con người.
– Chủ nghĩa nhân văn thời kỳ này trở thành mốt do sự xuất hiện của hàng loạt tác phẩm có giá trị như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương…
– Những nội dung thể hiện trong văn học thời kỳ này là sự đồng cảm trước bi kịch và đồng cảm trước những ước vọng của con người; khẳng định, đề cao tài năng và nhân phẩm, lên án những thế lực bạo tàn chà đạp con người; nêu cao truyền thống đạo lý, nhân nghĩa của đất nước.
– Cảm hứng nhân đạo lúc này cũng có những biểu hiện mới, hướng tới quyền sống của con người, đặc biệt là người trần thế (Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương); ý thức cá nhân mạnh mẽ hơn, ý thức về quyền sống, hạnh phúc cá nhân, tài năng cá nhân…. qua các tác phẩm như Tự tình (Hồ Xuân Hương), Bài hát ngất trời (Nguyễn Công Trứ).
– Tác giả và tác phẩm tiêu biểu:
+ Truyện Kiều (Nguyễn Du) đề cao vai trò của tình yêu, biểu hiện cao nhất của lòng biết ơn cá nhân. Tình yêu không chỉ mang đến cho con người vẻ đẹp của cuộc sống, qua tác phẩm, nhà thơ muốn làm dáng và bất chấp số phận.
+ Ở Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn), con người cá nhân gắn liền với nỗi sợ hãi của tuổi trẻ và sự biến mất niềm vui sống vì chiến tranh.
+ Thơ Hồ Xuân Hương là một cá nhân hồn nhiên khao khát sống, khao khát hạnh phúc, tình yêu đích thực, bộc lộ thẳng thắn những ước mơ của người phụ nữ có cá tính mạnh mẽ.
+ Truyện Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu) là một người có học, làm theo Nho giáo.
+ Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ) là một con người cá tính, công danh, hưởng thụ ngoài khuôn phép.
+ Thơ Tú Xương là nụ cười giải phóng cá nhân, tự khẳng định mình.
III. Cảm hứng của thế giới.
Văn học nhằm phản ánh hiện thực xã hội.
– Thể hiện cuộc sống đau khổ của con người, góp phần tạo tiền đề cho sự ra đời của văn học hiện thực giai đoạn sau.
Cảm hứng thế sự được thể hiện rõ nét trong văn học cuối đời Trần (thế kỷ XIV). Khi nhà Trần có dấu hiệu suy vong, văn học hướng đến việc thể hiện hiện thực xã hội và nỗi khổ của đời sống nhân dân.
– Cảm hứng về thế sự trở thành một nội dung chủ yếu trong sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua những bài thơ viết về nhân thế và thế sự.
– Văn học thế giới phát triển vào thế kỷ 18, 19; Nhiều tác giả có đời sống thực, hiện thực xã hội đương thời để ghi lại “những điều nhìn thấy”. Lê Hữu Trác viết Thương Kính Ký, Phạm Đình Hổ viết Vũ Trung. Đây có thể nói là xã hội thành thị của thơ Tú Xương. Cảm hứng thế sự của văn học trung đại đã góp phần tạo tiền đề cho sự ra đời của văn học hiện thực giai đoạn sau.
B. Về nghệ thuật:
1. Tính quy phạm và sự phá vỡ quy phạm.
+ Tính quy phạm, nét độc đáo của văn học trung đại là tính quy phạm chặt chẽ theo chuẩn mực.
+ Trên quan điểm văn chương: Coi trọng mục đích giáo huấn, văn chương đem đạo; trong tư duy nghệ thuật, tư duy theo khuôn mẫu có sẵn của nghệ thuật trở thành công thức; ở thể loại tản văn với những quy định chặt chẽ về kết cấu; sử dụng thi liệu, tham khảo nhiều điển tích, kinh điển, sử dụng nhiều văn bản quen thuộc. Do tính quy phạm nên văn học trung đại mang tính ước lệ và tượng trưng hơn. Tuy nhiên, các tác giả của văn học trung đại cũng đã vi phạm chuẩn mực đề cao cá tính sáng tạo trong nội dung và hình thức thể hiện.
2. Thời trang thanh lịch và thời trang giản dị.
+ Cái đẹp cũng là một bộ phận của văn học trung đại, nó thể hiện ở đề tài, chủ đề hướng tới cái cao sang, trang trọng hơn là đời thường, giản dị; ở hình tượng nghệ thuật hướng đến vẻ đẹp thanh tao, cao sang hơn là vẻ đẹp mộc mạc, giản dị; Trong ngôn ngữ nghệ thuật, đó là một chất liệu ngôn ngữ cao quý, cách diễn đạt chi tiết và đẹp đẽ hơn so với lối nói thông tục, tự nhiên và gần gũi với cuộc sống.
+ Trong quá trình phát triển của văn học trung đại, xu hướng bám sát hiện thực đã đưa văn học từ văn phong trang trọng, tao nhã đến gần với cuộc sống hiện thực, tự nhiên và bình dị hơn.
3. Tiếp thu và quốc hữu hóa cốt lõi của văn học nước ngoài
+ Văn học trung đại Việt Nam phát triển theo quy luật tiếp thu và dân tộc hóa những tinh hoa của văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học Trung Quốc.
+ Sử dụng chữ Hán để sáng tác, tiếp thu cổ thể, thể Đường luật của văn xuôi, hịch, cáo, chiếu, biểu, truyện, tiểu thuyết, văn xuôi, v.v…, sử dụng điển cố bằng chữ Hán và thi liệu.
+ Quá trình dân tộc hóa đã tạo ra chữ Nôm dựa trên yếu tố chữ Hán để ghi âm, diễn đạt nghĩa tiếng Việt và dùng chữ Nôm để sáng tác; Người Việt chuyển thể thơ Đường luật sang thơ Nôm Đường luật, lồng bảy ngôn ngữ vào Lục ngữ, sáng tạo ra các thể thơ như Lục bát, song thất lục bát, ngâm các thể, truyện trong thơ, hát nói. ; sử dụng các từ và cách diễn đạt của mọi người trong các tác phẩm của họ.
+ Văn học trung đại Việt Nam phát triển cùng với vận mệnh của đất nước và nhân dân. Cùng với văn học dân gian, văn học trung đại đã góp phần tạo nên diện mạo hoàn chỉnh và đa dạng cho nền văn học dân tộc.