
Một số bước xây dựng nhân vật trong tác phẩm văn học.
Hoạt động văn học miêu tả thay đổi tùy theo thành tựu nghệ thuật đương thời, bút pháp và phong cách của nhà văn, đặc điểm của thể loại cũng như nhu cầu cá thể hóa nội dung cụ thể của tác phẩm. Tuy nhiên, nhìn chung, chúng ta vẫn có thể thảo luận về một số bước chính thường được sử dụng
1. Tả tính cách qua ngoại hình.
Ngoại hình là hình thức bên ngoài của nhân vật, bao gồm quần áo, hành động, tác phong, dáng vẻ,… Đây là yếu tố quan trọng góp phần cá thể hóa nhân vật. Ở phần này, người viết thường chọn và miêu tả những chi tiết đặc sắc để thu hút người đọc. Chẳng hạn, Nam Cao miêu tả ngoại hình Chí Phèo khi anh ta mới ra tù; Tả ngoại hình của nhân vật Hoàng trong truyện ngắn Mắt. Điều quan trọng là việc miêu tả ngoại hình của nhân vật cần góp phần thể hiện nội tâm của nhân vật.
Chẳng hạn, việc Nguyễn Du miêu tả ngoại hình Tú Bà khiến người đọc thấy được bản chất xấu xa của chủ nhân lầu xanh:
“Bỗng bóng nhờn trông nhợt nhạt màu da,
Bạn ăn bao nhiêu cao và béo?”
Những phẩm chất tốt đẹp của người anh hùng Từ Hải còn được thể hiện qua hình thức:
“Bobster trong tôm hùm, nuốt trong hàm, anh trai,
Vai rộng 5 inch, lưng dài 10 feet.”
Nếu văn học cổ thường xây dựng ngoại hình nhân vật bằng những chi tiết ước lệ, tượng trưng thì văn học hiện đại thường đòi hỏi những chi tiết chân thực, sinh động. M.Gorki khuyên nhà văn nên làm cho nhân vật của mình giống như những con người đang sống và phải tìm, nhấn mạnh, nhấn mạnh những nét độc đáo thường thấy ở tư thế, nét mặt, nụ cười, khóe mắt,… trong tự nhiên.
Ngoại hình của nhân vật góp phần thể hiện nội tâm. Đó cũng là sự kết hợp giữa bên ngoài và bên trong của nhân vật. Vì vậy, khi tính cách, đời sống bên ngoài và đời sống bên trong của nhân vật thay đổi thì nhiều khía cạnh bên ngoài của nhân vật cũng thay đổi theo.
Trong việc xây dựng nhân vật, nhà văn phải thể hiện được những mặt riêng, khác nhau của nhân vật nhưng qua đó, người đọc hiểu được những nét chung của những con người cùng nghề nghiệp, cùng giai cấp, cùng thời đại. ,… Các nhân vật thành đạt. trong văn học từ xưa đến nay cho thấy nhà văn luôn cẩn thận lựa chọn những nét chung nhất để miêu tả nhân vật.
2. Miêu tả nhân vật qua nội dung.
Nội tâm của nhân vật là toàn bộ quan điểm tình cảm của một người về cuộc sống. Miêu tả nội tâm nhân vật cũng chính là sự thể hiện vốn sống và tài năng nghệ thuật của nhà văn. Ở khía cạnh này, nhà văn chú ý đến những chi tiết thể hiện đời sống nội tâm, trạng thái cảm xúc, diễn biến tâm trạng của nhân vật. Vì vậy, người đọc có thể hiểu được tính cách nhân vật, biết được những suy nghĩ cao đẹp, tình cảm tốt hay xấu của nhân vật.
Chẳng hạn, Nam Cao miêu tả nội tâm của bé Thu về những sự việc, những hành vi nhỏ nhặt nhất. Chứng kiến cảnh hạnh phúc của vợ chồng Mơ, bé Thu đã nghĩ rộng ra về tình yêu cao đẹp, cao đẹp tồn tại giữa những làng quê hoang tàn đổ nát, những con người biết hy sinh cho nhau dù cả hai chưa từng nghe đến từ hy sinh. Ngô Tất Tố tả suy nghĩ của chị Dậu trước cảnh bán con, bán chó,…
Suy nghĩ của nhân vật trước các tình huống, sự việc, diễn biến tâm trạng của nhân vật qua các tình huống khác nhau làm nổi bật tính cách của nhân vật. Dù là phác họa vài nét tiêu biểu về ngoại hình hay ghi lại một số đoạn ngôn ngữ bất ngờ mà nhân vật có thể hiện ra, đôi khi bằng một vài suy nghĩ sâu xa bên trong được phát hiện đúng lúc, tính cách nhân vật được bộc lộ trọn vẹn.
Nghệ thuật thể hiện tính cách nhân vật qua biểu hiện nội tâm được nhà văn thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Dù được thể hiện dưới hình thức nào, nhà văn bao giờ cũng phải trên nguyên tắc: nội dung tính cách nhân vật phải góp phần thể hiện tính cách nhân vật. Nguyên tắc này cần được đặc biệt nhấn mạnh trong hành động thể hiện nội tâm bởi trong khi ngoại hình và hành động là những yếu tố bộc lộ rõ ràng thì nội tâm mới là phần sâu sắc nhất của nhân vật.
3. Miêu tả nhân vật qua ngôn ngữ.
Khái niệm ngôn ngữ nhân vật chỉ lời nói của nhân vật trong tác phẩm. Những từ đó phản ánh kinh nghiệm sống cá nhân, trình độ văn hóa, tư tưởng, tâm lý, thị hiếu, v.v. Đằng sau mỗi câu nói của mỗi người đều có lịch sử của riêng nó. Sedrin nói: “Từ miệng người, không câu nào không làm được, lời nói nào không lịch sử.”. Đúng là trong cuộc sống không thể có những bộ phận ngôn ngữ nhân vật nhất định được thể hiện trong tác phẩm.
Ngôn ngữ là lớp vỏ của tâm hồn, cách nói luôn chứa đựng tư tưởng, tình cảm của con người. Chính vì lẽ đó, nhà văn luôn chú ý miêu tả nhân vật qua lời kể. Từ ngàn xưa, ông cha ta đã làm chứng rằng:
“Chim khôn gọi tự do,
Người khôn ngoan thì chậm nói và mau nghe.”
(mọi người)
Thúy Kiều và Từ Hải tha bổng cho Hoạn Thư cũng vì người đàn ông này:
“Người khôn khéo nói đúng lời:
Rằng: Em là một cô bé,
Ghen tuông cũng là chuyện bình thường.”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Trong tác phẩm tự sự nói chung, lời nhân vật thường có tỷ lệ nhỏ hơn lời người kể nhưng lại có khả năng sinh động, gợi cho người đọc hình ảnh về bản chất, tính cách. Ví dụ: lời của nhân vật Chí Phèo: “Không thể nào! Ai cho tôi lương thiện? Làm cách nào để loại bỏ vết chai trên mặt? Tôi không thể làm người tốt được nữa. Tìm ra! Chỉ có một cách… bạn biết đấy! … Chỉ có một cách… này! Tìm ra! …” (Chí Phèo – Nam Cao).
Trong tác phẩm văn học, việc cá thể hóa nhân vật thông qua ngôn ngữ nhân vật được nhà văn đặc biệt quan tâm và được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, người viết có thể cho nhân vật lặp lại một số từ hoặc câu mà nhân vật muốn (tôi biết, khổ lắm, điều này cô Hồng hay nói trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng), có thể cho nhân vật sử dụng một số từ địa phương, từ nước ngoài phát âm sai,… nhưng dù sử dụng cách nào thì ngôn ngữ của nhân vật cũng phải được lựa chọn để đạt được sự thống nhất giữa các cá nhân. đồng thời phải phù hợp với hoàn cảnh, tính chất nhân vật.
4. Miêu tả tính cách qua hành động.
Hành động của nhân vật là cách quan trọng nhất để thể hiện tính cách của nhân vật. Điều này không có nghĩa là phủ nhận hay xem nhẹ tác động của biểu hiện nội tâm hay hành vi thông qua ngôn ngữ và ngoại hình. Hành động là con đường quan trọng nhất vì hành vi của con người là hình thức biểu hiện hoàn thiện các phẩm chất, nhân cách, tâm lý, các giá trị cũng như các đặc điểm bên trong thế giới tinh thần của con người. Thông qua sự tổng hợp hành vi đối xử của các nhân vật khác.
Chẳng hạn, trong Tắt đèn, tên quan sắp đặt để cưỡng hiếp cô. Ít lâu sau vợ ông được cử đi làm quan ở tỉnh. Hành động đó thể hiện rõ bản chất thối nát, dâm ô, tự cao tự đại của bọn quan lại xưa.
Thông qua hành động của nhân vật, người đọc thấy được bản chất của nhân vật. Vì vậy, khi xây dựng nhân vật, nhà văn thường dành một phần đáng kể để miêu tả hành động. Việc thể hiện nhân vật văn học bao giờ cũng nhằm khai thác một nội dung của đời sống xã hội. Hình thức thể hiện nhân vật phải được xem xét phù hợp với nội dung của nhân vật. Thủ pháp và phương thức thể hiện đối với nhân vật chính, nhân vật phụ, chính diện và phản diện không giống nhau.
Hành động của nhân vật có thể được thể hiện thông qua phương thức tự sự hoặc miêu tả. Với lời kể, nhà văn liên hệ hành động của nhân vật. Với cách miêu tả, hành động của nhân vật được dừng lại một cách cụ thể và dường như đang diễn ra trước mắt người đọc. Thực tế văn học chứng minh rằng hành động và suy nghĩ nội tâm của nhân vật được nhà văn thể hiện trong mối quan hệ hữu cơ và biện chứng. Khi phân tích nghệ thuật nhận biết hành động, cần hết sức chú ý đến những tâm trạng, sắc thái nội tâm làm cơ sở của hành động.
Trên đây là những bước phổ biến nhất trong việc xây dựng nhân vật. Ngoài các bước trên, người viết còn có thể miêu tả nhân vật bằng cách đánh giá nhân vật trong tác phẩm, bằng cách miêu tả sự vật, nhà cửa, môi trường xã hội, thiên nhiên,… chúng sinh. Trong tác phẩm tự sự, ngôn ngữ của người kể chuyện là yếu tố quan trọng để bộc lộ, miêu tả và đánh giá nhân vật.
Sự khác biệt giữa các bước xây dựng nhân vật ở trên chỉ là tương đối. Trong thực tế, các bước này thường không tách rời nhau mà liên kết chặt chẽ với nhau. Vì vậy, thường khó thể hiện các bước xây dựng nhân vật ở dạng thuần túy và độc lập. Cũng cần lưu ý rằng việc nắm các bước trên chỉ nhằm mục đích tìm hiểu đầy đủ và chính xác các nhân vật trong tác phẩm văn học.