
Mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực.
1. Phản ánh hiện thực là nét đặc trưng của nghệ thuật.
Ở góc độ nhận thức luận, sự biểu hiện của hiện thực là một quy luật khách quan của nghệ thuật. Cách giải quyết những vấn đề chủ yếu của triết học – mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội có ý nghĩa phương pháp luận đối với việc tìm hiểu cơ sở khách quan của vấn đề về mối quan hệ giữa chân lý và nghệ thuật, của mỹ học, của lý luận nghệ thuật.
Sự phản ánh của chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người. Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người. Lênin viết:
“Kết luận duy nhất mà mỗi người phải rút ra trong cuộc sống thực tế, Kết luận mà chủ nghĩa duy vật tự nguyện dựa trên nhận thức luận của nó là có những sự vật, sự vật, sự vật tồn tại bên ngoài chúng ta, và cảm giác của chúng ta là hình ảnh của thế giới. bên ngoài chúng ta, và cảm xúc của chúng ta là hình ảnh của thế giới bên ngoài.”
Triết học Mác – Lênin giải thích đúng đắn và sâu sắc thuộc tính phản ánh của ý thức. Chúng ta biết rằng mọi vật chất đều có đặc tính phản ánh. Bộ não con người là tổ chức cao nhất của vật chất, nó không chỉ mang thuộc tính phản ánh tổng thể của vật chất mà còn là biểu hiện đầy đủ nhất, cao nhất của thuộc tính phản ánh. Ý thức của con người là sản phẩm của bộ não, tức là ý thức của con người là sự phản ánh thế giới vật chất của bộ não. Khi tiếp xúc với thế giới vật chất bên ngoài, con người sử dụng các giác quan: thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác… các giác quan – sự “đàn organ” bộ não tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài làm nảy sinh kinh nghiệm giác quan. Không có cái gì bên ngoài, cảm giác không thể phát sinh trong cơ thể con người. Chính vì hiện thực khách quan và hiện thực được thể hiện trước bộ óc con người thông qua các giác quan nên con người mới có kinh nghiệm cảm tính. Kinh nghiệm cảm tính là nguyên liệu để hình thành ý thức con người.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tư duy và tồn tại là mối quan hệ giữa cái được biểu hiện và cái được biểu hiện. Lênin viết: “tình cảm của chúng ta, ý thức của chúng ta” Chúng ta chỉ là một hình ảnh của thế giới bên ngoài, và bên cạnh đó, rõ ràng là không có phản ánh thì không có phản ánh. Nhưng xấp xỉ tồn tại độc lập với màn hình.
Trong cơ cấu đời sống xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng văn học là một hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng, cùng với các hình thái ý thức khác như triết học, khoa học, chính trị…, tất cả các hình thái ý thức khác đều phản ánh ý thức xã hội. mạng sống.
Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực là biểu hiện của mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa cái được thể hiện và cái được thể hiện. Vì vậy, sự thật là nguồn gốc của nhận thức, của ý thức, văn học là một loại ý thức; một dạng tri thức; Bởi vậy, hiện thực cuộc sống chính là cội nguồn của văn học, là mảnh đất nuôi dưỡng văn học, là chìa khoá giải thích mọi hiện tượng dù phức tạp nhất của văn học. Cũng chính từ cơ sở lí luận này, chúng ta mới hiểu được vì sao mục tiêu của văn học là hiện thực khách quan, là đời sống con người và xã hội.
Vì vậy, bất kỳ nền văn học nào cũng được hình thành trên cơ sở của một hiện thực xã hội; tác phẩm nào cũng là sự khúc xạ những vấn đề của cuộc sống, nhà văn nào cũng sinh ra từ một môi trường sống cụ thể. Phản ánh sự thật là một đặc tính cần thiết của văn học.
Đúng là nghệ thuật phản ánh hiện thực, nhưng không được hiểu khái niệm “hiện thực” một cách hẹp hòi để hiểu sự phản ánh hiện thực trong văn học với tư cách là sự biểu đạt giản đơn những sự kiện, sự kiện lịch sử-xã hội cụ thể. “Thực tế” nên được hiểu bao gồm môi trường xung quanh con người, con người, môi trường xã hội, quan điểm và lý thuyết chính trị xã hội, tư tưởng, tình cảm, v.v.
Trung tâm hiện thực là con người, nhưng nội dung hiện thực của tác phẩm chủ yếu không phải là những chi tiết xã hội, để miêu tả nhiều sự kiện, hoạt động bên ngoài con người. Hiện thực đặc sắc của nghệ thuật là thế giới tinh thần, tình cảm, tâm lý của con người và xã hội. Con người ở trung tâm hiện thực là con người kết tinh của các quan hệ xã hội – “tổng thể của các quan hệ xã hội” nhưng không phải là con người trừu tượng với những phẩm chất chung của con người mà là con người, cá thể, số phận con người. Nhu cầu sáng tác hay phân tích nghệ thuật theo nguyên tắc nghề nghiệp như “chân dung người lính”, “chân dung người nông dân”, “chân dung người phụ nữ”, truyện nông nghiệp, tiểu thuyết sản xuất, truyện rừng là một cách để quên đi nhiệm vụ. trong nghệ thuật – Nghệ thuật chủ yếu thể hiện tình cảm, cảm xúc, quan điểm, tâm lý của số phận.
2. Nhìn thấy và bộc lộ những suy nghĩ, cảm xúc trước hiện thực là phẩm chất của nghệ thuật.
Nói nghệ thuật phản ánh hiện thực là xác định cơ sở khách quan của việc nhìn nhận nghệ thuật. Nhưng thật sai lầm nếu coi sự phản ánh hiện thực là tiêu chí cao nhất để đánh giá nghệ thuật. Dưới góc độ mỹ học và lý luận nghệ thuật, nghệ thuật không nhằm thể hiện cuộc sống mà nhằm thấu hiểu và suy ngẫm về cuộc sống. Tác phẩm nghệ thuật là toàn bộ thế giới chủ quan của người nghệ sĩ: tình cảm, tâm lý, ý tưởng, ước mơ, giá trị, nhân cách và tài năng.
Tác phẩm nghệ thuật là cái nhìn, đánh giá về cuộc đời của nhà văn, là khát vọng về công bằng xã hội, là tiếng nói của lương tri, là sự trăn trở về cuộc đời. Biélinski từng tuyên bố: Một tác phẩm chết nếu nó mô tả cuộc sống nhằm mục đích mô tả, nếu nó không phải là một ngôn ngữ, không có một sự thôi thúc chủ quan mạnh mẽ nào bắt nguồn từ tư tưởng thịnh hành của thời đại. một tiếng kêu đau đớn, một bài ca vui mừng, một câu hỏi hay một câu trả lời”.
Giá trị nội dung của tác phẩm văn học trước hết không nằm ở tính xác thực của các chi tiết, ở các sự kiện lịch sử – xã hội được miêu tả chính xác, ở sự sao chép một cách máy móc các sự kiện, tình huống. cuộc sống hoặc chuyển dịch đơn giản một số ý tưởng sang ngôn ngữ nghệ thuật. Lênin làm chúng ta nhớ đến câu nói sau đây của Feuerbach: “Nghệ thuật không cần sự công nhận tác phẩm của nó là chân lý”. Lênin thấy rõ sự vĩ đại của L.Tolstoy Chủ yếu không phải nhà văn đưa ra “những bức tranh có một không hai về đời sống Nga”, mà trước hết, L. Tolstoi cho thấy những suy nghĩ, tình cảm, cách nhìn đang thay đổi của quần chúng nhân dân. Người Nga.
Cũng cần hiểu theo tinh thần này ý kiến sau đây của Lênin về L. Tolstoy: “L. Tolstoi, tấm gương phản chiếu cách mạng Nga” và “nếu trước mắt chúng ta có một nghệ sĩ thực sự vĩ đại, thì tác phẩm của anh ta có thể sẽ phản ánh một vài hoặc ba khía cạnh của cuộc cách mạng”. Lênin không có ý nói rằng văn học phải là những tấm gương phản ánh về cuộc sống. Bởi vì chính Lenin đã tuyên bố rằng Tolstoy “không muốn” nhìn anh nhắm mắt” với sự thật. Và như mọi người đều biết, Sáng tác nghệ thuật của L. Tolstoi không phản ánh trực tiếp các sự kiện cách mạng 1905 – 1907; Người viết không căn cứ tài liệu này vào bất kỳ tác phẩm quan trọng nào.
Nhà văn thông qua phản ánh thế giới khách quan để thể hiện thế giới chủ quan của mình. Tác phẩm nghệ thuật là khát vọng thể hiện một quan niệm về chân lý của cuộc sống, thế nào là “chân – thiện – mỹ” trong tự nhiên, trong xã hội, trong quan hệ giữa người với người và trong mỗi con người. Đó là sự thật mà tác giả đã trải qua, tác giả muốn chỉ ra, muốn bao trùm, muốn thuyết phục mọi người. Thạch Sanh và Lý Thông là hai mặt đúng sai của đạo lý: “Thiện gặp thiện, ác gặp ác” mà tác giả của câu chuyện vô danh này muốn dạy chúng ta. Sự thật của nhân cách Chí Phèo không phải Chí là con thú dữ, mà con thú dữ trong Chí Phèo bị khuất phục bởi chính bản chất con người tiềm ẩn của Chí. Các tác phẩm nghệ thuật ngoài đời thực chứa đầy cảm hứng của người nghệ sĩ. Nếu thơ là cây thì theo Bạch Cư Dị, gốc của thơ là tình, (gốc: tình, mèo: ngôn, hoa: âm, thực: nghĩa).
Lê Quý Đôn cũng coi tình là điều đứng đầu trong ba điều chính: “Thơ có ba điều chính: một là tình, hai là cảnh, ba là…”. . , từ chối điều ác, nhiệt thành với điều đúng. Nguyễn Du viết Truyện Kiều về văn “những điều nhìn thấy” với một cảm giác đau đớn “đau lòng”. Đau đớn nhất đối với Nguyễn Du là thân phận người phụ nữ trong xã hội ác độc. Nguyễn Du đã phải kêu lên: “Nỗi đau của phụ nữ”. Hồ Xuân Hương cũng chửi: Giết cha ở kiếp làm chồng thường.
Hiện thực tác phẩm thường thể hiện ở một khuynh hướng tư tưởng nào đó do những xung đột, mâu thuẫn trong cuộc sống gây ra. Không phải ngẫu nhiên mà trong mỹ học lại có những phạm trù: đẹp và xấu, cao và thấp, bi kịch và hài hước… sự tồn tại của các phạm trù trong mỹ học và nghệ thuật chứng tỏ người nghệ sĩ luôn có niềm đam mê sáng tạo.
Cuối bài thơ “Kiếp làm quan”, Nguyễn Khuyến viết:
Bạn có đủ tiền để làm điều đó không?
Có giống như kiếp trước không?
hình dạng “đọc thuộc lòng” Về chuyện ngày xưa, Nguyễn Khuyến tỏ lòng căm giận những kẻ cùng thời tham ô.
Giải thích về tuyên bố: Mọi tác phẩm nghệ thuật đều được xây dựng bằng cách sử dụng các vật liệu vay mượn trong thực tế. Nhưng người nghệ sĩ không chỉ ghi lại những gì đã có mà còn muốn nói lên những điều mới mẻ. (trích Tiếng nói văn nghệ – Nguyễn Đình Thi)