
Đặc điểm của tác phẩm chủ đạo.
1. Suy nghĩ sâu sắc và cầu tiến.
Văn chính luận mang tính tư tưởng sâu sắc, tiến bộ, bởi nó có vai trò đặc biệt trong cuộc đấu tranh xã hội, trong lịch sử văn hóa của dân tộc nói chung, dân tộc ta nói riêng. Hiệp ước chính trị thường giải quyết những vấn đề lớn nảy sinh trong đời sống xã hội. Ví dụ, “Tướng sát thủ” của Trần Quốc Tuấn, “Bình Ngô Đại Cáo” Nguyễn Trãi nóiTuyên ngôn độc lập” Các tác phẩm của Hồ Chí Minh là những tác phẩm chính trị bất hủ.
Văn học trình bày tư tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lập luận, lập luận, đôi khi bằng cách tái hiện cuộc sống, miêu tả nhân vật và số phận. Trong tác phẩm chính luận không chỉ thể hiện những suy nghĩ, nhận xét, bình luận về các sự kiện lịch sử, sự kiện trọng đại của dân tộc mà còn bàn về những vấn đề nhân sinh của thời đại được nhiều người quan tâm. “Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn viết Hịch tướng sĩ để bày tỏ tâm tư trước các tướng sĩ, “thế mới biết bụng ta”., nhưng tác dụng sâu xa và mạnh mẽ của tác phẩm là bàn về vấn đề cấp bách của đất nước trước nạn ngoại xâm. Lời nói của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn không chỉ là lời của một cá nhân, càng không phải của một Quốc Công bình thường, mà là của một con người gắn bó tình cảm của mình với vận mệnh nước nhà.”
Chính khách thay đổi cuộc đời, miêu tả tính cách, số phận chỉ nhằm mục đích đưa ra những ví dụ rõ ràng làm cơ sở cho lập luận, thường “ảnh minh họa”nó chỉ chứa nội dung phổ quát: “Tuyên ngôn Độc lập, nội dung nổi bật của tác phẩm là bản tuyên ngôn về quyền được hưởng quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam; là cốt lõi của quan hệ Pháp-Việt từ thuở sơ khai cho đến lúc đó; là sự khẳng định và quyết tâm bảo vệ chủ quyền của đất nước”. Tác phẩm chính luận có tính định hướng tư tưởng, có mục đích thuyết phục người đọc và có tác dụng thực tiễn rõ ràng.
2. Tích hợp, linh hoạt và sáng tạo trong lập luận.
Văn chính luận phải trực tiếp nêu lên, bàn luận những vấn đề liên quan đến ý nghĩa xã hội, ý nghĩa nhân văn nào đó nên phải chú ý đến sự tác động của lý trí, lý tính đối với người đọc, người nghe. Vì vậy, những quan niệm, tư tưởng rất trừu tượng phải được thể hiện bằng những tác phẩm chính luận cụ thể, thuyết phục bằng những luận cứ cụ thể. Đồng thời, một tác phẩm chính luận phải chứa đựng những luận cứ trực tiếp một cách nhất quán, linh hoạt, sáng tạo, v.v. , lập luận, và lập luận.
Luận điểm phải rõ ràng, đúng đắn, có tính khái quát cao, có quan niệm, tư tưởng sâu sắc. Chẳng hạn, trong Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, bao gồm các lập luận và mối quan hệ giữa tướng với tướng, về nỗi trăn trở của tác giả trước tình hình giặc vào, nguy cơ mất nước, về tiếng nói của giặc. mưu kế của giặc và thói vô trách nhiệm của tướng sĩ, chủ trương tướng sĩ phải học võ luyện võ, v.v. Tất cả những lập luận này hợp lại để chuyển tải hình ảnh Trần Quốc Tuấn.
Luận cứ là những sự việc cụ thể, những dẫn chứng, những luận cứ, dẫn chứng của hiện thực đời sống và những ý kiến được tác giả phát hiện, vận dụng để chứng minh cho những luận điểm đã nêu. Phải được tác giả nêu rõ và nhấn mạnh “ý nghĩa của vấn đề, ý nghĩa của xã hội, ý nghĩa của cuộc sống của họ”. Trong sách Lã Thị Xuân Thu khi nói về thay luật có viết như sau: “Có một người họ Chu đi thuyền qua sông, đánh rơi kiếm, liền khắc vào mạn thuyền câu: Kiếm ta rơi đây. Thuyền cập bến, chàng liền theo dấu, đi xuống tìm kiếm. Thuyền đi, gươm không theo. Nhìn như vậy, không sai chứ? Đó là cùng một luật cũ sẽ chi phối đất nước.”
Khi chúng ta nói về lập luận trong một bài luận, chúng ta đang nói về lập luận. Luận điểm là sự phát triển, đan xen qua lại giữa luận điểm và luận điểm, giữa các ý nhỏ kết hợp với nhau để dẫn đến sự kết tinh đó là luận điểm chính. Văn chính luận thường gắn chặt với đất nước, thời đại và phong cách cá nhân nên phong cách chính luận cũng muôn màu muôn vẻ. Nó phải thể hiện bốn hình thức cơ bản như giải thích, chứng minh, phân tích và bình luận.
Bằng chứng là cho một vấn đề đã được xác định nhưng cần giải thích thêm. Luận cứ ở đây phải nhiều, cụ thể, xác đáng, tiêu biểu: Chẳng hạn, trong Tuyên ngôn độc lập Hồ Chí Minh đã chứng minh cho nhận định: “Đã hơn tám mươi năm nay, chúng bị thực dân Pháp bóc lột, bóc lột. của tự do, bình đẳng, bác ái đã đến cướp nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng thật nhân đạo, chính nghĩa”, rồi dùng biện pháp liệt kê dẫn chứng cụ thể: “Chính trị…; Kinh tế…”; về mặt chính trị và kinh tế, tác giả đưa ra những khía cạnh cụ thể khác… mà có thể dưới dạng một bằng chứng quy nạp”.
Làm rõ là làm cho mọi người hiểu rõ những vấn đề, những điểm mà không phải ai cũng nhận ra, rõ ràng. Luận cứ ở đây cũng phải đầy đủ, nhưng cần củng cố lập luận sao cho thật rõ ràng, nhiều lớp và chặt chẽ: Trong Sửa đổi lối làm việc, sau khi nêu “Nhân, Chính, Trí, Dũng, Liêm” Năm nội dung cơ bản của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh lần lượt giải thích: “Người thật thà, thương dân, hết lòng giúp đỡ đồng nghiệp, đồng hương nên chúng ta kiên quyết chống lại những kẻ làm điều hại đoàn thể, hại dân… Nghĩa là… Trí là… Dũng là… liêm là … … “.
Phân tích là một cách lập luận về một vấn đề cơ bản chia nhỏ toàn bộ vấn đề thành các khía cạnh khác nhau để xem xét. Góc nhìn sắc bén của người phân tích, lập luận có hệ thống, mạch lạc và toàn diện giúp người đọc hiểu vấn đề theo một trình tự rõ ràng từ cái chung đến cái cụ thể, rồi từ quan điểm mà – tổng hợp sâu sắc hơn:Kêu gọi quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, Lúc đầu, Bác tuyên bố chung chung. “Đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh cướp nước ta một cách dã man, nhưng chúng đã thua to”. Tiếp đó, Bác điểm lại mọi mặt tình hình hai miền Bắc – Nam và những diễn biến mới.
Nhận xét là đánh giá, xem xét mặt đúng sai, mặt tốt, mặt chưa tốt của một sự việc, sự vật, quan niệm… đồng thời đào sâu, mở rộng để phát huy mặt tích cực và phòng ngừa. Trong chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, bình luận về những ý kiến tách rời hay nhập làm một giữa văn nghệ và tuyên truyền, tác giả Trường Chinh viết: “Theo chúng tôi, cả hai ý kiến trên đều không đúng. Mỹ thuật và tuyên truyền không hoàn toàn khác nhau nhưng cũng không giống nhau. Tuyên truyền cũng là một nghệ thuật. Mỹ thuật nói chung là một bộ phận của nghệ thuật. Và tác phẩm nghệ thuật nào cũng vậy. bản chất ít nhiều là tuyên truyền. Nhưng điều đó không có nghĩa là nghệ thuật và tuyên truyền là một.”
Vì vậy, các dạng trên không hoàn toàn so sánh với nhau và thường được sử dụng cùng nhau trong một bài văn chính luận.
Nghị luận: Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị và là một bài chính luận lí tưởng.