
Đặc điểm và tính chất của tiếp nhận văn học.
1. Tiếp nhận là khâu cuối cùng của quá trình sáng tác.
Nếu coi một tác phẩm nghệ thuật là bộ não của nhà văn, và nhà văn phải thai nghén, mang nặng đẻ đau, sinh nở thì thời gian hoàn thành văn bản tác phẩm chỉ bằng thời gian đứa trẻ ra đời, đứa trẻ được sinh ra. Còn cuộc đời, cuộc đời, số phận của nó thì khỏi nói đến. Số phận của đứa trẻ được quyết định như thế nào phụ thuộc vào anh ta và xã hội xung quanh. Số phận của một tác phẩm nghệ thuật phụ thuộc vào nó và người nhận nó. Hoạt động sáng tạo nghệ thuật chỉ kết thúc khi được độc giả chấp nhận. Một tác phẩm nghệ thuật đã hoàn thành, nằm im lìm trong ngăn kéo của nhà văn hoặc không bị ai ngó lơ, không phải là một tác phẩm nghệ thuật đích thực. Sơ đồ quá trình sáng tác – giao tiếp văn học như sau: Nhà văn – Tác phẩm – Bạn đọc.
Vì vậy, có ba giai đoạn trong quá trình tồn tại của sản phẩm văn học: Giai đoạn thứ nhất là hình thành mục tiêu sáng tạo, giai đoạn thứ hai là giai đoạn sản xuất. Đây là giai đoạn mục tiêu sáng tạo và tài năng sáng tạo được cụ thể hóa trong chất liệu ngôn ngữ và trong tác phẩm. giai đoạn thứ ba là giai đoạn người đọc chấp nhận. Đây là giai đoạn văn bản tác phẩm tách khỏi nhà văn để tồn tại độc lập với xã hội, với mỗi độc giả.
2. Tiếp nhận văn học là một quá trình giao tiếp.
Tiếp nhận văn học là một quá trình giao tiếp. Mối quan hệ giao tiếp giữa tác giả và người tiếp nhận là mối quan hệ giữa người nói và người nghe, người viết và người đọc, người nói và người chia sẻ, đồng cảm. Nhà văn luôn mong muốn người đọc hiểu mình và cảm nhận được những điều mình muốn truyền tải, gửi gắm. Cao Bạt Quát đã từng nói: “Xưa nay nỗi khổ của con người không gì sánh bằng chữ tình, nhưng cái khó ở đời không giống như gặp gỡ, rất khó gặp gỡ, đồng điệu. Nhưng dù không trọn vẹn, tác giả và người đọc luôn có sự hiểu biết nhất định về những khía cạnh nhất định, những suy nghĩ nhất định.
Đọc Truyện Kiều, ai không đồng tình với quan điểm của Nguyễn Du rằng “Kẻ tài hoa ghét nhau” vẫn có thể cùng ông chia sẻ nỗi đau của thế gian; Ai chưa hài lòng với sự ra tay của tác giả Từ Hải vẫn có thể thưởng thức những trang văn ca ngợi người anh hùng “Trèo trời khuấy nước, tuy trong đầu không biết là ai”…
3. Mục đích tiếp nhận văn học.
Tiếp nhận văn học là một hoạt động lịch sử – xã hội có mục đích. Sau khi tác phẩm thoát khỏi tay nhà văn, nó trở thành hiện tượng tinh thần, đối tượng tinh thần khách quan của người đọc. Người đọc xem nó như một kiểu phản ánh, thế giới quan. Mọi nhận thức đều có mặt chủ quan và mặt khách quan của nó. Hơn nữa, tri kiến đúng đắn là tri kiến tiếp cận được với bản chất và quy luật của vật chất. Nội dung của một tác phẩm trước hết được tạo nên bởi những thuộc tính vốn có của nó, những thuộc tính này hiện diện trong bản thân tác phẩm.
Có thể nói một tác phẩm nghệ thuật bao gồm hai phần là phần cứng và phần mềm. Phần cứng là văn bản, là sự khái quát của đời sống, là một hệ thống ý nghĩa, sự tiếp nhận phụ thuộc vào các quan hệ của đời sống xã hội, phụ thuộc vào tâm hồn người đọc. Phần cứng tạo ra cơ sở tiếp nhận khách quan. Trong phần cứng này, có nhiều phương thức tạo nên tính khách quan cho hoạt động tiếp nhận văn học. Đầu tiên, thực tế của cuộc sống được hiển thị. Thứ hai là chất liệu nghệ thuật xây dựng hình tượng thể hiện cuộc sống dựa trên ngôn ngữ toàn dân, thứ ba là định hướng nội tại của tác phẩm hiệu quả thẩm mỹ do nhà văn tạo ra. Nhà văn không chỉ nói lên những hiểu biết sâu sắc về cuộc sống, những quan sát và những phát hiện nghệ thuật của mình mà còn nhằm thể hiện chúng theo cách gây được ấn tượng sâu sắc đối với công chúng. Đó là đặc trưng cần có của tác phẩm về nội dung và hình thức.
Cần thấy, Văn kiện là một tổ chức chặt chẽ và chặt chẽ. Văn bản có đặc trưng thể loại. Từ ngữ, hình ảnh có ý nghĩa do truyền thống văn hóa dân tộc và thời đại quyết định. Người đọc không thể bỏ qua phẩm chất biểu cảm của văn bản, không thể chỉ cắt câu hoặc áp đặt ý nghĩa. Vì vậy, văn bản vẫn là phương thức tồn tại khách quan của tác phẩm, là phương thức quy định hoạt động tiếp nhận của người đọc. Sự tiếp nhận phải phù hợp với dữ liệu khách quan của văn bản thì mới thực sự có giá trị. Vì vậy cần phải khẳng định tính khách quan của việc tiếp nhận. Mọi người đọc có thể phát huy tính tìm tòi, cảm nhận của mình, nhưng cảm nhận đó phải dựa trên toàn bộ văn bản.
Đây là cơ sở khách quan để chấp nhận tác phẩm tạo được ấn tượng chung giống nhau đối với tất cả người đọc. Phần cứng tại nơi làm việc tạo ra cùng một nội dung nhất quán từ tác giả đến từng độc giả. Điều hiển nhiên là người đọc hay khán giả sau khi cùng nhau xem một tác phẩm nghệ thuật đều có ấn tượng chung về một nhân vật. Trong dân gian, những nhân vật nghệ thuật sống sau đây đều có chung ấn tượng với mọi người: Trương Phi, Tào Tháo; (Trời nóng
Trương Phi, Đa nghi như Tào Tháo) Chu Khanh, Hoạn Thư (ai lừa được đàn bà thì được phong Sở Khanh, đàn bà hay ghen tuông cay nghiệt thì được gán huyết hiệu là Hoạn Thư).
4. Tính chủ quan trong tiếp nhận văn học.
Trong giao tiếp giữa tác phẩm và bạn đọc cần chú ý đến tính cá thể hóa, tính chủ động và hoạt động của người tiếp nhận. Ở đây, năng lực, khẩu vị và sở thích cá nhân đóng một vai trò rất quan trọng; Tùy theo già hay trẻ, trình độ học vấn cao hay thấp, kinh nghiệm nhiều hay ít mà có những kết quả tiếp nhận cụ thể và khác nhau ở mỗi người. Ngay cả cùng một người, khi còn trẻ đọc tác phẩm khác nhau, sau khi lớn lên thì đánh giá khác, và về già, đánh giá khác. Ngoài ra, khi người đọc đến với một tác phẩm văn học, họ có những tâm trạng vui buồn khác nhau, nền tảng văn hóa khác nhau, những định kiến khác nhau hay thái độ sống vô tư, phóng khoáng. Có bao nhiêu người đọc một tác phẩm, thì có bấy nhiêu dị bản của tác phẩm đó trong lòng họ, xét về độ sâu, độ sâu, độ phức tạp hay một phần nào đó. Một số người quan tâm đến những chi tiết này, những người khác kể lại chúng một cách nhiệt tình và dường như mọi người đều có lý do của riêng mình. Ví dụ, cùng nhau đọc truyện Bà chúa tuyết của Andersen, trẻ em cũng như người lớn đều thích thú, nhưng cách hiểu của mỗi người lại khác nhau. Đó là thơ Xuân Diệu, nhưng khi buồn tôi đọc khác, khi vui tôi đọc khác, khi yêu tôi đọc khác…
Khuynh hướng tư tưởng, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ làm cho sự tiếp nhận văn học mang tính cá nhân và tính chủ động của người tiếp nhận làm tăng sức sống cho tác phẩm. Nhưng khẳng định tính chủ thể của tiếp nhận không có nghĩa là người đọc hoàn toàn tự do hiểu văn bản theo cách mình muốn.
5. Khuynh hướng xã hội tiếp nhận văn học.
Tiếp nhận văn học, mặc dù mang tính cá nhân cao, nhưng không phải là hoạt động thoát khỏi điều kiện lịch sử – xã hội. Hoạt động nghệ thuật luôn mang tính xã hội mạnh mẽ. Xu hướng xã hội, hiện thực cuộc sống chi phối mạnh mẽ quá trình tiếp nhận văn học của mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân khi đến làm việc không chỉ mang theo mình mà còn mang theo cả mình.
Họ lý giải công việc trên cơ sở lợi ích giai cấp, xã hội. Tiếp nhận Truyện Kiều, Nguyễn Khuyến suy ngẫm về một xã hội mà đồng tiền trở thành cán cân công lý mà Nguyễn Du lên án:
Bạn có đủ tiền để làm điều đó không?
Có giống như kiếp trước không?
Nguyễn Khuyến nhìn rõ Truyện Kiều từ hoàn cảnh lịch sử mà ông sống. Vịnh Kiều nhưng lại lên án xã hội đương thời. Lúc đó cũng vậy, cuộc sống ngày nay cũng vậy. Đó là tiền.
Sau khi nhà văn hoàn thành văn bản tác phẩm, tác phẩm nghệ thuật bắt đầu trôi theo dòng đời và chấp nhận số phận lịch sử. Có những tác phẩm vừa ra đời đã lập tức được độc giả yêu thích, nhưng rồi lại bị lãng quên. Có những tác phẩm khi ra đời bị đào thải, lãng quên nhưng lại được yêu mến, trân trọng. Có tác phẩm trong cuộc đời ông trôi chảy hoặc sáng suốt trong một thời gian dài, có tác phẩm nhạt nhoà… Có tác phẩm cùng một lúc nhưng người đọc, người ghét, người yêu, người ngưỡng mộ và người phê bình. Có những tác phẩm người viết định một đằng nhưng người đọc lại hiểu một nẻo. Truyện Kiều của chúng ta là một ví dụ. Ngày nay chúng ta coi Truyện Kiều là một kiệt tác của nền văn học dân tộc. Và quả thật Truyện Kiều đã làm say đắm biết bao thế hệ. Trong đó có vua Tự Đức:
Bạn thích gì về tổ tôm?
Yêu ngựa Hậu bổ, yêu nốc Thúy Kiều.
Nhưng không phải không có lúc, một số người sợ Truyện Kiều
Đừng đọc Phan Trần khi còn nhỏ
Là phụ nữ đừng đọc Thúy Vân, Thúy Kiều.
Việc một số tác phẩm thăng trầm theo năm tháng không phải do sự thăng trầm của dư luận lúc bấy giờ, mà do sự ngu dốt của công chúng lúc bấy giờ. Điều chính bị ảnh hưởng bởi các xu hướng tư tưởng của thời đại. Việc tiếp nhận thơ mới ở ta chẳng hạn. Khi phong trào thơ mới ra đời được độc giả, đặc biệt là giới trẻ đón nhận, nhưng sau đó, khi đất nước kháng chiến chống Pháp và Mỹ, thơ mới trở nên cũ kỹ. Bởi vì nó khiến người ta trở nên kiên cường và cứng rắn trước làn đạn. Giờ đây, khi đất nước được hòa bình, nhân dân đón nhận Thơ Mới như đón nhận Thơ Mới. Như Kharavchenko nói: Mỗi thời kỳ nhất định luôn tương ứng với những sắc thái khác nhau trong một tác phẩm nghệ thuật với những khía cạnh khái quát biểu tượng khác nhau.