
Đôi nét về văn học Việt Nam sau 1975
1. Văn bản.
Về hình thức, kết cấu là một trong những khía cạnh quan trọng góp phần tạo nên diện mạo mới cho văn học Việt Nam sau 1975. “Kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sống động của tác phẩm, là thủ pháp nghệ thuật khái quát, ra đời đồng thời với mục đích nghệ thuật”.
Trong văn học trước 1975, các tác giả thường sử dụng cấu trúc khép kín. Với kết cấu này, ý đồ nghệ thuật của tác giả được bộc lộ rõ nét trên trang giấy v.v…, người đọc được dẫn dắt từ đầu đến cuối câu chuyện hoặc đắm chìm trong cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Sau 1975, cấu trúc khép kín của văn học không còn phù hợp và bộc lộ nhiều hạn chế, do sự đấu tranh “giữa hai mặt cá tính và phi cá nhân, giữa cái đầy đủ và cái không đầy đủ, giữa những khoảng sáng và tối” (Nguyễn Minh Châu) là một cuộc đấu tranh vĩnh cửu. Vì vậy, người đọc dễ dàng nhận thấy các dạng cấu trúc khác nhau của văn học Việt Nam giai đoạn này là cấu trúc theo dòng ý thức, theo tâm lý hoặc đan xen nhiều truyện kể…
Nhìn chung, hầu hết các tác giả đều chọn hình thức kết cấu mở. Điều này có nghĩa là trong tác phẩm của mình, nhà văn chỉ nêu vấn đề mà không có kết luận, người đọc tham gia vào việc sáng tạo, dự đoán, đánh giá, phán đoán một cách dân chủ về tác phẩm. Trong thơ, hình thức kết cấu mở cũng được đặc biệt chú trọng. Các nhà thơ thay đổi một cách có ý thức, phá vỡ trật tự tuyến tính, cố gắng giải thích những mối quan hệ hời hợt, tạo ra những dòng đứt đoạn, gạt các sự kiện khác nhau sang một bên và buộc người đọc phải tự đồng nhất.
Với hình thức khung mở, khi tiếp cận văn bản, người đọc không phải là chủ thể thụ động của hoạt động đọc mà là chủ thể đồng sáng tạo, người đọc cùng sáng tạo. Nó có khả năng khơi dậy, đánh thức người đọc những liên tưởng phong phú, những kiến giải bất ngờ… đồng thời, nó hoàn toàn phù hợp với sự đổi mới về thuật ngữ nội dung của văn học sau 1975 – nhìn nhận văn học như một hoạt động sáng tạo, một kiểu ứng xử, một kiểu tương tác của con người với thế giới.
2. Giai điệu.
Giọng điệu là yếu tố hình thức quan trọng thể hiện lập trường, tư tưởng, tình cảm, tư tưởng của tác giả. Giọng văn thể hiện rõ phong cách riêng của nghệ sĩ và đặc biệt tạo được ấn tượng đối với người đọc. Thay vào đó, giọng điệu của mỗi tác giả là cơ sở để tạo nên giọng điệu chung của cả một thời kỳ văn học.
Nếu văn học không bị gò bó bởi những khuôn khổ tư tưởng định sẵn, nếu nhà văn được tận mắt nhìn đời và bày tỏ tiếng nói của mình, thì mỗi tác giả sẽ tự tạo ra tiếng nói riêng, tư tưởng riêng của mình trong nghệ thuật. Và nếu họ không cần nói lên tiếng nói của xã hội bằng những trang ca ngợi con người, đất nước với cái nhìn sử thi và cảm hứng lãng mạn, với giọng ngợi ca, trang trọng hay trữ tình thiết tha, thì người nghệ sĩ cứ tự do nói lên tiếng nói nghệ thuật của mình. Vì vậy, văn học sau 1975 có sự chuyển đổi từ đơn giọng sang đa giọng.
Tuỳ theo đối tượng phản ánh, cách thể hiện, sở trường ngôn ngữ v.v… mà mỗi tác giả có cách thể hiện giọng điệu riêng. Có lẽ chính giọng điệu khúc triết, trải đời đã thể hiện cách nhìn, cách nghĩ về con người trong sáng tác của Nguyễn Khải; là tiếng nói tự sự, tự thú thể hiện những suy tư, triết lý trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu…
Tuy nhiên, “giọng điệu của nhà văn, nhà thơ không phải là hiện tượng tĩnh, bất biến mà luôn động, luôn biến đổi. Mỗi nghệ sĩ lớn thường là nghệ sĩ tạo ra một giọng điệu rộng, phong phú và đa dạng. Đó là sự thống nhất trong đa dạng.” Vì vậy, sự đa dạng về giọng điệu không chỉ là một bộ phận hình thức của một thời kỳ văn học, mà còn là một bộ phận phong cách của một tác giả được thể hiện trong các tác phẩm khác nhau, thậm chí có thể tồn tại ở một thời kỳ khác – khác.
Có thể thấy, đa âm, phức điệu là giọng điệu chủ đạo của văn học sau 1975. Sự đổi mới này so với văn học trước đó đã góp phần tạo nên một diện mạo mới, hấp dẫn cho văn học hiện đại. quốc gia.
3. Ngôn ngữ.
Tinh thần dân chủ của văn học Việt Nam thời kỳ quá độ không chỉ làm thay đổi diện mạo tác phẩm về kết cấu, giọng điệu mà còn mang lại sự phong phú về ngôn ngữ.
Nếu như điệp khúc tràn đầy niềm vui lạc quan làm nên ngôn ngữ đặc trưng của văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 là ngôn ngữ mượt mà hoặc trang trọng, thì sự mở rộng đề tài, chủ đề trong văn học sau 1975 đã gây ra nhiều biến đổi trong ngôn ngữ văn học. Thay cho ngôn ngữ mang đậm màu sắc chính trị, quân sự, phong trào xã hội, cộng đồng hay ngôn ngữ đại chúng với ý nghĩa khái quát điển hình, đó là ngôn ngữ đời thường, đậm tính thông tục, thông tục. Ngôn ngữ cuộc sống cũng ùa về trên trang viết của Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Minh Châu… đôi khi khiến người đọc cảm thấy không cần thiết phải sắc sảo. Trong thơ ca, nhiều tác giả thường sử dụng những câu tục ngữ của những người có ngôn ngữ đầy đời thường. Tiêu biểu cho hướng này là Nguyễn Duy.
Tuy nhiên, khi nhà văn được tự do phát huy cá tính sáng tạo của mình thì ngôn ngữ không chỉ được coi là phương tiện biểu đạt mà còn trở thành cứu cánh sáng tạo của văn học. Vì vậy, lúc này, việc sáng tạo tìm kiếm ngôn ngữ nghệ thuật đã trở thành ước mơ và mục đích của nhiều tác giả. Bên cạnh xu hướng sử dụng ngôn ngữ gần gũi với đời sống, còn có một đối cực khác – ngôn ngữ đa thanh, đầy ẩn dụ, nhiều nghĩa tạo nên cái lạ, cho phép người đọc phát huy hết khả năng tưởng tượng và trải nghiệm của mình. kinh nghiệm tìm hiểu nghệ thuật của bản thân mà thơ Thanh Thảo là một ví dụ điển hình.
Tính đa chiều mới lạ nói trên đem đến nhiều ngôn ngữ khác nhau cho cùng một tác phẩm. Đôi khi tính chất khác biệt của ngôn ngữ người kể, ngôn ngữ nhân vật bị xóa nhòa, vai trò phát ngôn trong tác phẩm được giao cho nhiều người, nhiều việc… tác phẩm góp phần làm nên thành công của văn học Việt Nam trong hành trình hiện đại và hội nhập. văn học thế giới.